1/72
Looks like no tags are added yet.
Name | Mastery | Learn | Test | Matching | Spaced |
---|
No study sessions yet.
Có nhiều giả thuyết về cơ chế gây bệnh bụi phổi silic, bao gồm?
thuyết cơ giới, thuyết hóa học, thuyết nhiễm trùng và thuyết dị ứng.
Tuy nhiên, từ năm 1954, lý thuyết về miễn dịch học của Pernis và Vigliani đã được?
nhiều người công nhận.
Theo thuyết về miễn dịch học của Pernis và Vigliani điểm xuất phát của quá trình bệnh lý là?
sự tan rã của các đại thực bào sau khi chúng ăn các hạt bụi silic. Bụi silic có tác dụng độc hại đối với tế bào; khi đại thực bào tiếp nhận các hạt bụi này, màng tế bào sẽ bị tổn thương, đặc biệt là tổn thương các túi tiêu thực bào, dẫn đến sự thoát ra và khuếch tán của các men thủy phân trong tế bào chất, gây ra sự tự tiêu của đại thực bào.
Sự tiêu hủy đại thực bào do silic gây ra?
một loạt các phản ứng sinh học, dẫn đến sự hình thành tổn thương thể hạt đặc trưng cho bệnh silicosis.
Sự tan rã của đại thực bào có hai tác dụng chính?
-thứ nhất, giải phóng yếu tố sinh xơ, kích thích hoạt động của nguyên xơ bào;
-thứ hai, giải phóng các kháng nguyên đã được thực bào trước đó, có thể bao gồm cả tự kháng nguyên, dẫn đến sự gia tăng miễn dịch và sự xuất hiện của kháng thể, từ đó tạo ra phản ứng kháng nguyên-kháng thể.
-Cả hai tác dụng này đều góp phần gây ra tình trạng xơ hóa ở phổi.
Tổn thương giải phẫu bệnh lý đặc trưng của bệnh bụi phổi silic là?
sự hiện diện của các hạt silic, thường tập trung ở vùng xung quanh phế quản và mạch máu.
Các hạt silic có đường kính từ?
0,3 đến 1,5 mm và có thể kết hợp với nhau để tạo thành các hạt lớn hơn.
Hạt silic thường có hình dạng tròn hoặc hình sao thổ, với trung tâm là?
những bó xơ được xếp theo hướng tâm hoặc hình cuộn len, đôi khi hòa lẫn thành một khối đồng nhất.
Xung quanh các hạt silic này là một quầng tế bào bao bọc, bao gồm?
các sợi lưới, đại thực bào, nguyên bào sợi và tương bào. Sự tổn thương này phản ánh quá trình xơ hóa phổi do tiếp xúc với bụi silic, dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng cho sức khỏe hô hấp.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh silicosis ở giai đoạn đầu thường rất nghèo nàn và kín đáo, chủ yếu là?
khó thở, và thường xuất hiện muộn. Sau đó, bệnh nhân có thể gặp phải ho và đau ngực. Những triệu chứng này không điển hình và có thể thấy ở nhiều bệnh hô hấp khác.
Bệnh silicosis không gây ra khái huyết; nếu có khái huyết, thường là do?
kèm theo lao phổi.
Trong giai đoạn đầu Bệnh bụi phổi silic, thể trạng bệnh nhân thường bình thường, nhưng khi bệnh
tiến triển nặng, thể trạng sẽ?
giảm dần và có thể dẫn đến suy sụp. Khám thực thể thường ít thấy có dấu hiệu bất thường.
Bệnh bụi phổi silic
Về thăm dò chức năng hô hấp, chức năng thông khí phổi thường giảm, với giảm thông khí hạn chế (giảm FVC) do?
nhu mô phổi bị xơ hóa.
Bệnh bụi phổi silic
Trong giai đoạn nặng, thường có giảm thông khí phối hợp (giảm FVC kèm theo giảm FEV1) do?
tổn thương ở phế quản hoặc do tổn thương xơ hóa nặng gây tắc nghẽn đường thở. Các xét nghiệm huyết học và sinh hóa có thể có thay đổi nhưng không đặc thù.
Chẩn đoán chính xác bệnh silicosis chủ yếu dựa vào?
hình ảnh X quang phổi.Trên phim X quang, có thể thấy những nốt mờ với kích thước và số lượng khác nhau, cũng như những khối giả u to nhỏ ở cả hai bên phế trường.
Việc chẩn đoán bệnh bụi phổi qua X quang đòi hỏi kỹ thuật chụp phim đặc biệt về?
liều lượng tia và cần có kinh nghiệm trong việc đọc phim. Cần lưu ý rằng có khoảng 40 bệnh khác có hình ảnh X quang tương tự như bệnh bụi phổi silic, do đó, X quang không đủ để chẩn đoán một cách độc lập.
Biến chứng xuất hiện trong giai đoạn nặng gồm?
dãn phế nang, tâm phế mạn, lao phổi, tràn khí phế mạc, bội nhiễm.
Hiện nay chưa có điều trị đặc hiệu chủ yếu là điều trị triệu chứng. Bệnh vẫn tiếp tục tiến triển mặc dầu đã thôi tiếp xúc với bụi. Do đó điều quan trọng vẫn là?
dự phòng và có biện pháp chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho công nhân tiếp xúc với bụi silic.
Bệnh bụi phổi asbest là?
bệnh phổi nghề nghiệp quan trọng thứ hai, chỉ sau bệnh bụi phổi silic. Bệnh này phát sinh do tiếp xúc lâu dài với bụi amiant trong quá trình sản xuất.
Tổn thương bệnh lý đặc trưng của bệnh bụi phổi Asbest (Asbestosis) là?
xơ hóa phổi, dẫn đến giảm chức năng hô hấp.
Amiant là?
nguyên liệu được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp nhờ vào những đặc tính quý giá như không cháy, bền với nhiệt độ cao và các chất hóa học như axit và kiềm, cũng như khả năng chịu lực ma sát.
Amiant được dùng để?
dệt vải, may các loại áo cách nhiệt, thảm chống lửa, thừng cách nhiệt, vật liệu cách âm, vật liệu xây dựng (gạch ngói amiant, xi măng amiant), bìa các tông, và má phanh ô tô.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp này, cũng như trong các ngành khai thác mỏ và chế biến quặng đá có amiant, đều có nguy cơ mắc?
bệnh bụi phổi asbest.
Những bệnh án đầu tiên về bệnh bụi phổi asbest được mô tả vào?
năm 1906 ở Pháp (Auribault) và năm 1907 ở Anh (Murray).
Năm 1927, Pancoast và cộng sự đã?
mô tả những biến đổi về X quang của bệnh bụi phổi asbest
Từ năm 1950 trở đi, bệnh bụi phổi asbest đã được?
công nhận chính thức.
Đến năm 1967, ở Anh ước tính có khoảng 20.000 công nhân mắc bệnh. Tại Việt Nam, vào đầu những năm 70, đã phát hiện một số trường hợp bệnh bụi phổi asbest ở nhà máy fibrocement với tỷ lệ?
5,5%.
Ngoài ra, bụi amiant cũng gây tổn thương bệnh lý ở màng phổi và màng bụng, đặc biệt là?
gây u trung biểu mô (mesothelioma).
Ở phổi, sợi amiant (có đường kính rất nhỏ) xâm nhập vào nhu mô phổi và có đặc điểm là?
cắm theo chiều dài mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Sau một thời gian, sự hiện diện của sợi amiant sẽ dẫn đến hiện tượng xơ hóa phổi.
Cơ chế gây xơ hóa phổi do amiant vẫn chưa được làm rõ, nhưng có?
sự thực bào đối với các sợi có chiều dài nhỏ hơn 5 micromet.
Đối với các sợi amiant quá dài, có hiện tượng?
gắn kết giữa đại thực bào (ĐTB) và sợi amiant, nhưng độc tính của amiant đối với ĐTB là thấp, do đó không gây ra sự tự tiêu của ĐTB.
Người ta cho rằng hiện tượng xơ hóa phổi là do?
phản ứng của tế bào đối với dị vật.
Quá trình phản ứng phản ứng của tế bào đối với dị vật hoàn toàn khác với phản ứng của bệnh silicosis ở hai điểm chính?
thứ nhất, không có hoại tử của ĐTB; thứ hai, không có phản ứng miễn dịch. Điều này cho thấy cơ chế bệnh sinh của bệnh bụi phổi amiant có những đặc điểm riêng biệt so với các bệnh bụi phổi khác.
Về lâm sàng, bệnh bụi phổi asbest thường xuất hiện rất muộn, thường từ?
7 đến 10 năm sau khi tiếp xúc với bụi amiant.
Giai đoạn đầu của bệnh bụi phổi asbest diễn ra từ từ và kín đáo, biểu hiện bằng?
ho, khó thở và tức ngực.
Ban đầu, ho chỉ là phản ứng của thanh quản và khí quản do?
bụi kích thích, xuất hiện trong thời gian làm việc và có thể hết khi cơ thể thích ứng với bụi.Tuy nhiên, sau khoảng 4 đến 5 năm tiếp xúc, ho sẽ xuất hiện trở lại, thường xuyên hơn và hay tái phát vào mùa đông, dễ bị nhầm lẫn với các triệu chứng do thời tiết.
Khó thở khi gắng sức cũng là một triệu chứng, lúc đầu nhẹ và dễ bị bỏ qua vì?
thường được cho là do tuổi tác, đặc biệt vì bệnh asbestosis
thường không xảy ra ở người trẻ. Khó thở thường đi kèm với cảm giác tức ngực.
Khi khám thực thể bệnh bụi phổi asbest, có thể nghe thấy ran nổ khô, khu trú ở đáy phổi. Ran nổ là?
dấu hiệu thường xuyên và đặc hiệu của bệnh bụi phổi asbest.
Về chức năng hô hấp bệnh bụi phổi asbest, cần thiết cho chẩn đoán và tiên lượng, FVC thường?
giảm, và trong giai đoạn nặng, FEV1 cũng giảm.
X quang phổi bệnh bụi phổi asbest cho thấy?
tổn thương thường ở vùng dưới của hai phế quản, với các đám mờ nhỏ, lan tỏa không đều, ban đầu xuất hiện ở góc sườn hoành và sau đó lan ra cả hai phế trường. Hai đỉnh phổi thường không bị tổn thương. Hình ảnh X quang trong bệnh bụi phổi asbest có thể thay đổi và không đặc hiệu.
Soi đờm trực tiếp dưới kính hiển vi có thể thấy sợi amiant lóng lánh, trong suốt. Khi sợi amiant cắm theo chiều dài vào phế nang, các protein sẽ?
bao bọc lại với
sự hiện diện của huyết sắc tố, được gọi là thể asbest. Nhuộm bằng ferocyanua kali sẽ cho màu xanh, trong khi nhuộm bằng sunfua amoni sẽ cho màu đen.
Sự hiện diện của sợi amiant và thể asbest trong đờm chỉ có ý nghĩa là?
có tiếp xúc với bụi amiant.
Biến chứng của bệnh bụi phổi asbest thường xảy ra trong giai đoạn nặng và bao gồm?
ung thư phổi, rối loạn hệ thống tạo huyết, tâm phế mãn, giãn phế quản, nhiễm trùng và tràn khí màng phổi.
Các triệu chứng của bệnh bụi phổi - asbest đều không đặc trưng do đó chẩn đoán phải dựa vào?
tiền sử và tất cả các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng nêu trên.
Không có điều trị đặc hiệu và cũng như bệnh bụi phổi - silic, bệnh bụi phổi - asbest vẫn tiếp tục phát triển mặc dầu?
ngưng tiếp xúc với bụi.
Trong các bệnh phổi do thực vật, bệnh bụi phổi bông là?
một trong những bệnh phổ biến nhất, còn được gọi là bệnh hen của thợ dệt, bệnh sốt ngày thứ hai hay bệnh khó thở tức ngực ngày thứ hai.
Bệnh bụi phổi bông (Byssinosis) có nguyên nhân nghề nghiệp do?
tiếp xúc với bụi bông, lanh và gai, đặc trưng bởi triệu chứng khó thở cấp tính, kèm theo ho và tức ngực, thường xuất hiện vào một hoặc nhiều ngày trong tuần lao động.
Bệnh bụi phổi bông (Byssinosis) Triệu chứng có thể hồi phục khi?
sử dụng thuốc giãn phế quản, nhưng nếu tiếp xúc lâu dài, bệnh có thể dẫn đến hội chứng nghẽn thông khí mãn tính.
Bệnh bụi phổi bông (Byssinosis) thường gặp ở?
công nhân ngành dệt, những người tiếp xúc với các loại bụi có nguồn gốc từ bông, sợi, lá và vỏ cây bông. Các công nhân làm việc trong các quy trình như cán xé bông, đóng kiện, xe sợi và dệt đều có nguy cơ mắc bệnh.
Từ cổ xưa, bông và lanh đã được sử dụng để dệt vải, nhưng đến thế kỷ 17, Ramazzini là?
người đầu tiên đề cập đến bệnh bụi phổi do bông.
Bệnh bụi phổi bông phát triển mạnh ở nhiều nước, với?
ít nhất 40% công nhân tiếp xúc với bụi bông mắc bệnh này. Ở những nơi mà các biện pháp phòng chống bụi không được thực hiện tốt, tỷ lệ mắc bệnh có thể còn cao hơn. Tỷ lệ bệnh bụi phổi bông tại một số quốc gia được ghi nhận từ 20% 38%
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu cho thấy có nhiều công nhân làm việc ở các nhà máy dệt mắc bệnh này, với tỷ lệ?
18,2%.
Người ta đã đưa ra nhiều nguyên nhân gây bệnh bụi phổi bông, bao gồm?
vai trò của vi sinh vật như vi khuẩn & nấm, nhiễm trùng đường hô hấp do các vi sinh vật có trong sợi, ô nhiễm môi trường do các chất độc, và khói thuốc lá.Trong số các nguyên nhân này, có giả thuyết cho rằng có một chất gây co thắt phế quản chứa trong bụi bông.
Bệnh bụi phổi bông có thể nặng hay nhẹ tùy thuộc vào?
lượng bụi bông ở nơi lao động và thời gian tiếp xúc với bụi.
Cơ chế bệnh sinh của bệnh bụi phổi bông vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Một trong những cơ chế có vẻ hợp lý nhất là?
việc giải phóng histamine từ một chất nào đó chưa được xác định có trong bông, lanh và gai. Sự hiện diện của một chất gây co thắt phế quản trong bụi (cùng với hiện tượng giải phóng histamine) không mang tính kháng nguyên, có thể giải thích cho các triệu chứng điển hình xuất hiện vào ngày thứ hai.Phần lớn histamine trong tổ chức phổi được giải phóng và tác động lên đường thở vào ngày lao động đầu tiên, nhưng chỉ một ít hoặc không còn histamine được giải phóng cho đến khi người công nhân nghỉ việc vào cuối tuần.
Tuy nhiên, điều này không giải thích được tại sao những bệnh nhân bị bệnh bụi phổi bông nặng lại ở tình trạng mất khả năng lao động với các triệu chứng tắc nghẽn đường hô hấp thường xuyên và kéo dài. Có khả năng rằng?
cả hai loại yếu tố giải phóng histamine, có và không mang tính chất kháng nguyên, đều có vai trò trong cơ chế phát sinh bệnh bụi phổi bông.
Về giải phẫu bệnh lý ở Bệnh bụi phổi bông?
ở phổi không có biến đổi đặc hiệu. Không có hiện tượng xơ hóa, và các chi tiết về tổ chức phổi tương tự như ở bệnh nhân bị viêm phế quản mãn tính.Điều này cho thấy rằng bệnh bụi phổi bông có thể có những đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh lý tương đồng với các bệnh lý hô hấp khác, nhưng vẫn cần thêm nghiên cứu để làm rõ cơ chế bệnh sinh và các yếu tố liên quan.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh bụi phổi bông thường bắt đầu bằng?
cảm giác tức ngực và khó thở khi bắt đầu lao động sau những ngày nghỉ cuối tuần hoặc những ngày nghỉ khác.
Ở giai đoạn muộn, sau nhiều năm tiếp xúc với bụi bông, bệnh nhân có thể?
giảm khả năng lao động nghiêm trọng, với các triệu chứng của viêm phế quản
mãn tính và giãn phế nang.
Triệu chứng Bệnh bụi phổi bông
Giai đoạn sớm: Các triệu chứng đặc trưng bao gồm?
vào ngày lao động đầu tiên sau ngày nghỉ cuối tuần, thường là vào ngày thứ hai (nếu ngày nghỉ là thứ sáu, thì ngày lao động đầu tiên là thứ bảy). Triệu chứng này kéo dài cho đến hết ca lao động và thường hết ngay sau khi rời khỏi vị trí lao động. Vào ngày thứ ba, bệnh nhân thường không còn triệu chứng gì.
Triệu chứng Bệnh bụi phổi bông
Giai đoạn sớm Khi bệnh phát triển, triệu chứng tức ngực có thể kèm theo?
khó thở, và tình trạng này ngày càng kéo dài, lan sang ngày thứ ba, thứ tư và các ngày khác.
Triệu chứng Bệnh bụi phổi bông
Giai đoạn sớm:các triệu chứng kéo
dài nhưng thường?
nhẹ dần vào các ngày cuối tuần.Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể gặp các triệu chứng khác như ho, mệt mỏi, nhức đầu và đặc biệt là sốt, vì vậy có tác giả đã gọi bệnh bụi phổi bông là "bệnh sốt ngày thứ hai."
Triệu chứng Bệnh bụi phổi bông
Giai đoạn nặng hơn: Các triệu chứng có thể?
xuất hiện trong tất cả các ngày làm việc, và ngay cả khi bệnh nhân đã chuyển nghề không còn tiếp xúc với bụi bông nữa, bệnh vẫn không thuyên giảm.
Triệu chứng Bệnh bụi phổi bông
Vào giai đoạn
cuối, bệnh bụi phổi bông có thể không phân biệt được với bệnh viêm phế quản mãn tính và giãn phế nang do?
nguyên nhân không phải nghề nghiệp, trừ khi khai thác tiền sử, cho thấy triệu chứng tức ngực xuất hiện một cách đặc trưng vào ngày lao động đầu tiên trong tuần làm việc. Tuy nhiên, bệnh nhân thường quên những triệu chứng sớm, dẫn đến việc được chẩn đoán là bệnh mãn tính đường hô hấp không phải do nghề nghiệp.
Biến đổi chức năng hô hấp trong bệnh bụi phổi bông: Các triệu chứng lâm sàng có liên quan đến?
sự giảm rõ rệt dung tích hô hấp trong suốt ca lao động.
Biến đổi chức năng hô hấp trong bệnh bụi phổi bông:Việc theo dõi sự thay đổi thể tích thở ra tối đa trong giây đầu trước và sau ca lao động vào ngày thứ hai là?
rất quan trọng, có ý nghĩa xác định chẩn đoán và giúp chẩn đoán sớm bệnh bụi phổi bông.
Ở những người có triệu chứng của bệnh bụi phổi bông, thể tích thở ra tối đa trong giây đầu sẽ?
giảm nhiều có ý nghĩa sau ca lao động so với đầu ca, hơn là ở những người không có triệu chứng.
Phim X quang phổi trong bệnh bụi phổi bông: Trên phim X quang phổi, không thấy biến đổi đặc hiệu của bệnh bụi phổi bông. Nếu có, chỉ là?
những hình ảnh tổn thương của bệnh viêm phế quản mãn tính hoặc giãn phế nang do nguyên nhân không phải nghề nghiệp. Điều này cho thấy rằng việc chẩn đoán bệnh bụi phổi bông cần dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các yếu tố nghề nghiệp, hơn là chỉ dựa vào hình ảnh X quang.
Chẩn đoán sớm bệnh phổi nhiễm bụi bông dựa vào?
- Tiền sử nghề nghiệp: Yếu tố tiếp xúc, người bệnh làm việc ở các cơ sở sản xuất như nhà máy chế biến bông, đay, gai; nhà máy sợi, dệt vải, dệt bao bì, tiếp xúc lâu năm với các loại bụi thực vật nói trên.
- Các triệu chứng cơ năng điển hình: Tức ngực, khó thở xuất hiện vào ngày làm việc đầu tiên trong tuần sau ngày nghỉ cuối tuần.
-Chức năng hô hấp: Có biểu hiện của giảm thông khí tắc nghẽn, đặc biệt trong ngày lao động đầu tiên của tuần lễ làm việc.
Tiến triển và tiên lượng Bệnh bụi phổi bông?
-Các triệu chứng của bệnh xuất hiện vài tuần hoặc vài tháng rồi có thể mất hẳn nếu công nhân chuyển nghề ở giai đoạn sớm của bệnh.
-Thông thường bệnh có thể tiến triển nặng hơn với khó thở , ho.
-Bệnh tiến triển qua giai đoạn nặng với tình trạng suy hô hấp mạn, có thể dẫn đến biến chứng nhiễm trùng, suy tim.
-Ở người nghiện thuốc lá, tiên lượng bệnh càng nặng hơn.
Khi áp dụng các biện pháp phòng chống bụi nói chung cần lưu ý một số điểm?
+ Thay thế nguyên liệu là không thực tế
+ Cần phải có hệ thống thông gió hút bụi, lọc bụi.
+ Giám sát nồng độ bụi trong không khí, nồng độ bụi tối đa cho phép đối với bụi bông là 1mg (ở nơi có nồng độ bụi cao 4mg/m3, trên 50% công nhân mắc bệnh bụi phổi bông, ở nơi có nồng độ bụi khoảng 1mg/m3 không ai mắc bệnh này).
Các biện pháp dự phòng Bệnh bụi phổi bông
Biện pháp cá nhân?
Công nhân phải mang khẩu trang khi làm việc tiếp xúc với bụi. Nếu nơi làm việc có nồng độ bụi quá cao, cần có biện pháp hoán đổi vị trí công việc, cần giảm thời gian tiếp xúc với bụi.
Các biện pháp dự phòng Bệnh bụi phổi bông
Biện pháp y tế?
Phát hiện các dấu hiệu cơ năng đặc trưng của bệnh bụi phổi bông, dựa vào bảng câu hỏi. Đo chức năng thông khí phổi. Sự thay đổi trong ca lao động đầu tiên sau ngày nghỉ cuối tuần. Quản lý, điều trị người mắc bệnh. Nếu được chuyển công tác sang làm công việc khác.